Tăng trưởng kinh tế toàn cầu khiêm tốn, xu hướng giảm lãi suất là chủ đạo
Tăng trưởng toàn cầu ở mức khiêm tốn
Đồng thời, chúng cũng làm lu mờ cuộc gặp của các nhà hoạch định chính sách toàn cầu tại hội nghị kinh tế thường niên Jackson Hole của Cục Dữ trữ Liên bang Mỹ (Fed) vào cuối tuần qua.
Ngay cả khi mối lo ngại của các quan chức tiền tệ Mỹ và châu Âu chuyển dịch từ lạm phát cao sang thị trường việc làm yếu đi, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản vẫn tái khẳng định quyết tâm đưa nền kinh tế này thoát khỏi thập kỷ siêu nới lỏng tiền tệ, bất luận xuất hiện nhiều tín hiệu lạm phát dai dẳng.
Sự khác biệt trong định hướng chính sách giữa các ngân hàng trung ương, cùng với sự chững lại của Trung Quốc - nền kinh tế lớn thứ hai thế giới - là chỉ dấu cho thời kỳ khó khăn mà nền kinh tế toàn cầu và các thị trường tài chính phải đối mặt.
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản hôm 31/7 đã quyết định tăng lãi suất chính sách lên 0,25% và quyết định giảm tốc độ mua trái phiếu chính phủ xuống còn 3.000 tỷ yên (tương đương 20 tỷ USD). Động thái này được coi là một bước chuyển tiếp, hướng đến bình thường hóa chính sách khi Nhật Bản phải đối mặt với thực tế đồng yên suy yếu đi.
Cho đến nay, nhiều nhà phân tích vẫn đồng tình với dự báo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) rằng nền kinh tế toàn cầu sẽ đạt được mức tăng trưởng khiêm tốn trong những năm tới khi nền kinh tế Mỹ "hạ cánh mềm", tăng trưởng của châu Âu tăng tốc và kinh tế Trung Quốc thoát khỏi tình trạng trì trệ.
Thế nhưng, dự báo trên vẫn dựa trên nền tảng không chắc chắn khi xuất hiện những nghi ngờ về triển vọng hạ cánh mềm của kinh tế Mỹ, tăng trưởng của Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) chưa phục hồi, còn Trung Quốc đang phải chịu đựng tình trạng tiêu dùng chững lại.
Ông Pierre-Olivier Gourinchas, nhà kinh tế trưởng của IMF cảnh báo: "Chúng ta có thể chứng kiến những đợt biến động thị trường khác vì thị trường đang ở trong một vùng đất chưa được khám phá", khi các ngân hàng trung ương lớn bước vào chu kỳ nới lỏng tiền tệ sau khi thắt chặt chính sách để đối phó với tình trạng lạm phát bùng nổ.
Trong khi đó, "Nhật Bản đang trong một chu kỳ hơi khác. Thị trường phải tìm ra bản chất của tất cả những điều này và thị trường phản ứng thái quá. Vì vậy, chúng ta sẽ chứng kiến thêm biến động", ông Gourinchas lưu ý.
Các rủi ro tăng trưởng cần lưu tâm
Trong bài phát biểu được mong đợi từ lâu, Chủ tịch Fed, ông Jerome Powell, đã xác nhận tại hội nghị kinh tế Jackson Hole vào cuối tuần qua rằng cơ quan này sắp bắt đầu cắt giảm lãi suất, đồng thời cho rằng thị trường việc làm sẽ tiếp tục "hạ nhiệt" là điều không mong muốn.
Quan điểm trên có sự thay đổi đáng kể so với những gì Chủ tịch Fed nhận định ở thời kỳ lạm phát tăng vọt vào năm 2021 và 2022. Đồng thời, nó cũng củng cố quan điểm rằng Fed đang chuyển hướng khỏi chính sách "diều hầu" vốn đã đẩy lãi suất cơ bản lên mức cao nhất trong một phần tư thế kỷ và duy trì nó trong hơn một năm qua.
Nghiên cứu mới được trình bày tại hội nghị Jackson Hole cho thấy nền kinh tế Mỹ có thể đang đến gần điểm tới hạn, khi mà số lượng việc làm tiếp tục giảm sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp tăng nhanh hơn.
Tương tự, các quan chức của Ngân hàng Trung ương châu Âu cũng đang hướng về đợt cắt giảm lãi suất vào tháng 9, một phần là để giảm bớt áp lực giá cả nhưng cũng vì triển vọng tăng trưởng đang suy yếu đáng kể.
Thật vậy, Eurozone hầu như không tăng trưởng trong quý II/2024 khi Đức, đầu tàu kinh tế của khu vực, bị suy giảm; còn ngành sản xuất chế tạo vẫn trong tình trạng suy thoái sâu sắc và xuất khẩu đã chững lại, chủ yếu là do nhu cầu từ Trung Quốc vẫn yếu.
"Rủi ro tăng trưởng âm đối với khu vực Eurozone gần đây tăng lên, đã củng cố cơ sở để cắt giảm lãi suất tại cuộc họp chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương châu Âu vào tháng 9", ông Olli Rehn, thành viên Hội đồng thống đốc Ngân hàng Trung ương châu Âu, cho biết.
Tại Nhật Bản, các nhà phân tích lo ngại, mặc dù tiêu dùng đã phục hồi trong quý II, nhưng tiền lương có tăng đủ để bù đắp cho chi phí sinh hoạt tăng cao hay không vẫn là điều chưa chắc chắn.
"Nhu cầu trong nước rất yếu", bà Sayuri Shirai, cựu thành viên hội đồng quản trị Ngân hàng Trung ương Nhật Bản, đánh giá. Bà Shirai nói thêm: "Về mặt kinh tế, có rất ít lý do để Ngân hàng Trung ương Nhật Bản tăng lãi suất".
Trong khi đó, Trung Quốc, quốc gia đông dân nhất thế giới, đang trên bờ vực giảm phát và tiếp tục hứng chịu tác động của khủng hoảng bất động sản kéo dài, nợ tăng vọt và tâm lý tiêu dùng và kinh doanh đi xuống.
Tăng trưởng quý II thấp hơn dự báo đã khiến Ngân hàng Trung ương Trung Quốc phải bất ngờ cắt giảm lãi suất vào tháng trước và làm tăng khả năng hạ dự báo tăng trưởng của IMF đối với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.
"Trung Quốc là một nhân tố lớn trong nền kinh tế toàn cầu. Tăng trưởng yếu hơn ở Trung Quốc có tác động lan tỏa đến phần còn lại của thế giới", ông Pierre-Olivier Gourinchas, nhà kinh tế trưởng của IMF, nhận xét.
Nếu tăng trưởng của Mỹ và Trung Quốc tiếp tục cho thấy dấu hiệu chững lại sẽ là điềm báo không lành cho các nhà sản xuất trên toàn cầu vốn đã căng thẳng vì nhu cầu yếu.
Theo Reuters, các cuộc khảo sát tư nhân cho thấy các nhà máy trên khắp nước Mỹ, châu Âu và châu Á đã gặp khó khăn trong tháng 7, làm tăng nguy cơ phục hồi kinh tế toàn cầu không đủ mạnh.
Còn với các nền kinh tế mới nổi giàu tài nguyên như Brazil, kinh tế Trung Quốc chững lại có thể ảnh hưởng đến xuất khẩu kim loại và thực phẩm của họ, nhưng giúp giảm bớt áp lực lạm phát thông qua hàng hóa nhập khẩu rẻ hơn.
Trong dự báo cập nhật giữa tháng 7/2024, IMF giữ nguyên ước tính tăng trưởng GDP thực tế toàn cầu năm 2024 ở mức 3,2%, không đổi so với tháng 4, nhưng nâng dự báo tăng trưởng năm 2025 thêm 0,1 điểm phần trăm lên 3,3%. Các dự báo này không thể chuyển dịch tăng trưởng khỏi mức ảm đạm mà Tổng giám đốc IMF Kristalina Georgieva đã cảnh báo trước đó là sẽ dẫn đến "những năm 2020 ảm đạm".
Ngoài ra, IMF đã điều chỉnh triển vọng đối với một số nền kinh tế lớn. Trong đó, dự báo tăng trưởng kinh tế Mỹ năm 2024 được điều chỉnh giảm 0,1 điểm phần trăm xuống còn 2,6% sau khi tiêu dùng quý I chậm hơn dự kiến. Còn năm 2025, dự đoán tăng trưởng kinh tế Mỹ vẫn đạt mức 1,9% khi thị trường lao động "hạ nhiệt" và chi tiêu hạn chế để ứng phó với chính sách tiền tệ thắt chặt.
Nguồn: Báo Đầu tư